Ngành giấy và muôn điều ngộ nhận - cần lắm cái nhìn công tâm
Vừa qua, tại Hội Thảo Giải pháp chính sách phát triển bền vững ngành giấy tại Việt Nam, đại diện các cơ quan nhà nước, chuyên gia và doanh nghiệp cũng cùng thảo luận để cung cấp một góc nhìn khách quan, trung lập và đầy đủ hơn - “giãi bày” cho những quan điểm chưa được xác đáng và cùng tìm ra tiếng nói chung, đảm bảo cho sự phát triển ổn định và toàn diện của ngành.
“Đừng cứ nói đến giấy là ô nhiễm môi trường”
Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Văn Hiện, Tổng GĐ Giấy Việt Trì trăn trở: “Tôi nghĩ tiếng nói ngành giấy chúng ta lâu nay không có nên có rất nhiều văn bản giấy tờ, nhiều nhận xét về ngành giấy chúng ta rất khó nghe. Cứ nói đến môi trường, cứ nói đến giấy là ô nhiễm là không có đóng góp cho nhà nước”
Ông Nguyễn Văn Hiện kỳ vọng lãnh đạo Hiệp hội giấy cần có tiếng nói hơn trước những Nghị định, chính sách liên quan đến ngành.
Trong khi đó, ghi nhận trong lịch sử tăng trưởng các ngành công nghiệp Việt Nam, ngành giấy có bước phát triển mạnh mẽ với mức tăng trưởng bình quân 11% vào giai đoạn 2000-2007 và 16% giai đoạn từ 2007 đến 2017. Trong cuộc sống, giấy là sản phẩm thiết yếu và là ngành sản xuất đóng vai trò trọng yếu, đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế Việt Nam. Với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất, ngành tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động tại các doanh nghiệp sản xuất, đồng thời cộng hưởng để phát triển các ngành kinh tế khác: tối ưu hoá khối lượng lớn gỗ rừng trồng của lâm nghiệp, phủ xanh đất trống đồi trọc và hỗ trợ người trồng rừng; tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành chế biến phát triển. Đối với xã hội, ngành giấy cung cấp nhiều sản phẩm cho mục đích đa dạng: hoạt động văn hoá xã hội, hoạt động giáo dục hay hoạt động sản xuất, nghiên cứu và cung cấp nhiều sản phẩm cho người tiêu dùng.
Theo dự kiến, nhu cầu giấy của Việt Nam trong thời gian tới có mức tăng trưởng từ 8-10%/năm, hàng năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu gần 2 triệu tấn giấy cho nhu cầu sử dụng của người tiêu dùng và cho sản xuất. Riêng đối với giấy bao bì, nhu cầu sử dụng giấy bao bì cho sản phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu có mức tăng trưởng rất lớn, vì vậy việc tăng năng lực sản xuất đối với giấy bao bì còn nhiều tiềm năng để phát triển. Với nhu cầu lớn đáng kể và vai trò đa dạng đối với kinh tế, sản xuất của ngành giấy dự kiến đóng góp khoảng 1,5% giá trị GDP, kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt trên 1 tỷ USD.
Nhu cầu sử dụng sản phẩm giấy bao bì – sản phẩm sử dụng nguyên liệu từ giấy hỗn hợp ngày càng tăng cao, cụ thể mỗi năm tăng đến 15%
Ông Patrick Chung, Tổng Giám đốc Công ty Giấy Lee&Man, đại diện cho các doanh nghiệp FDI cũng lên tiếng. Ông khẳng định ngành giấy, và tất cả các sản phẩm của ngành giấy, không phải là ngành gây ra ô nhiễm môi trường. “Việt Nam ta có khoảng 300 công ty gồm cả công ty vừa và nhỏ, công ty của các doanh nghiệp FDI và tôi chắc chắn là không có công ty nào trong số 300 công ty đó chủ đích muốn làm ô nhiễm môi trường vì chúng ta đến đây là để nghiêm túc đầu tư kinh doanh và mang lại lợi nhuận.”
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế, Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam cũng khẳng định đối với các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng thì chắc chắn họ sẽ tuân thủ mọi quy định của pháp luật khi vận hành, đặc biệt là các quy định về môi trường vì đã đầu tư nghiêm túc thì ai cũng muốn gắn bó lâu dài và nghĩ đến sự phát triển chung của đất nước.
“Hãy coi giấy tái chế như là nguyên liệu chứ không phải phế liệu”
Ông Nguyễn Ngọc Sang - Chủ tịch Hiệp hội Bao bì Việt Nam bày tỏ mong muốn Giấy tái chế nên được xem như là nguyên liệu chứ không phải phế liệu, để nó được phát triển và tiếp cận đúng với tiềm năng vốn có “Giấy tái chế, nếu coi nó như phế liệu, chúng ta sẽ đối xử như phế liệu; còn nếu coi nó là nguyên liệu chúng ta sẽ đối xử như nguyên liệu”
Việc sử dụng giấy tái chế làm nguyên liệu mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và xã hội như giảm khai thác tài nguyên, giảm đi việc chặt phá rừng. Riêng với các doanh nghiệp, việc tận dụng để sản xuất giúp giảm chi phí do giá thành thấp, giảm thiểu chi phí để xử lý so với việc phát thải ra môi trường. Do đó, trong sản xuất công nghiệp, không riêng ngành giấy mà rất nhiều ngành đã và đang sử dụng giấy tái chế trong sản xuất.
Hơn nữa, hiện nay, nguồn cung giấy tái chế trong nước không thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các doanh nghiệp, dẫn đến nhu cầu nhập khẩu số lượng lớn nhằm phục vụ cho sản xuất trong nước. Theo ước tính sơ bộ, tỷ lệ thu gom giấy tại Việt Nam chỉ đạt dưới ngưỡng trung bình thế giới, khoảng dưới 40% trước khi đưa vào phân loại và xử lý. Nhận định về thực tế này, ông Phan Chí Dũng - Nguyên Vụ trưởng Vụ Công nghiệp Nhẹ Bộ Công Thương chia sẻ: “70% sản lượng giấy của Việt Nam sản xuất từ nguyên liệu là giấy phế liệu. Trong đó chỉ gần 40% được thu gom trong nước, còn lại phải nhập khẩu. Đối với các doanh nghiệp tái chế giấy chuyên nghiệp, có năng lực tái chế tốt như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, họ rất cần nguồn nguyên liệu giấy và rõ ràng nhập khẩu là một giải pháp bắt buộc trong bối cảnh trong nước không đủ nguyên liệu sản xuất”.
“Ngành giấy là một ngành kinh tế có sự phù hợp tự nhiên với mô hình kinh tế tuần hoàn, trong đó, việc tái chế nguyên liệu được chú trọng cao” – ông Phan Chí Dũng phân tích
“Với sự phát triển của ngành thì giấy thu hồi/ giấy tái chế là một nguồn nguyên liệu rất quan trọng và đã đến lúc cần phải thay đổi quan điểm, đây không phải là phế liệu mà đây là nguyên liệu quan trọng của sản xuất. Và chính ngành giấy cũng đáp ứng tiêu chuẩn của kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường”, ông Đậu Anh Tuấn chia sẻ thêm.
Chuyên gia, doanh nghiệp cùng tìm hướng giải pháp
Tại Hội thảo, các chuyên gia cũng thống nhất cho rằng, việc siết chặt quản lý phế liệu nhập khẩu ở thời điểm này là cần thiết, nhất là khi thời gian qua đã có một số doanh nghiệp lợi dụng những kẽ hở trong quản lý nhập khẩu phế liệu cho sản xuất để nhập “rác” vào Việt Nam, gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, việc Chính phủ siết chặt quản lý cần phải có đánh giá tác động kinh tế và phải có lộ trình, tránh đột ngột khiến doanh nghiệp rơi vào thế bị động, đồng thời cũng sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền đến một chuỗi các ngành công nghiệp khác như ngành công nghiệp bao bì, ngành công nghiệp xuất khẩu... “Thay đổi chính sách nhất là các chính sách ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp cần có đánh giá tác động và có lộ trình” – Ông Phạm Đình Thưởng chuyên gia pháp chế đề xuất. Trong khi đó, ông Hoàng Trung Sơn cho rằng cần có sự đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp để có sự “thấu hiểu”, từ đó có thể điều chỉnh quy định hợp lý hơn.
Hội thảo cũng đã đưa ra những tính toán khách quan cho thấy mức thiệt hại của doanh nghiệp khi không được phép nhập khẩu giấy phế liệu hỗn hợp phục vụ sản xuất
Còn theo ông Đậu Anh Tuấn, quản lý nếu chỉ đơn thuần là đóng cửa và giữ định kiến thì rất cực đoan và cũng trì hoãn sự phát triển rất nhiều. Cần phải sàng lọc những doanh nghiệp nào làm ăn đàng hoàng, những doanh nghiệp chưa tuân thủ tốt và cũng phải có những tiêu chuẩn hợp lý. Hơn nữa, Việt Nam cần tham khảo chính sách quản lý nhập khẩu giấy phế liệu của các nước khác, đối chiếu với tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu tại Việt Nam để đưa ra được chính sách phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc các cơ quan Nhà nước có liên quan tham vấn các doanh nghiệp để có quan điểm khách quan hơn hơn để dần hình thành và hoàn thiện khung khổ pháp lý này là hoàn toàn cần thiết
Nguồn: dantri.com.vn